Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích chi tiết nhất| Ngữ văn 10

26/03/2025

Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đề tài trọng tâm khi tìm hiểu tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đoạn trích không chỉ khắc họa rõ tâm trạng đau đớn, cô đơn và lo lắng của Thúy Kiều sau khi bị lừa bán vào lầu xanh, mà còn thể hiện rõ nét bút tài hoa và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả. 

Thông qua hình ảnh thiên nhiên và nghệ thuật miêu tả nội tâm, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh tâm trạng đầy ám ảnh, khiến người đọc không khỏi xót xa cho số phận người con gái tài sắc nhưng bạc mệnh.

Mẫu 1 – Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, tác giả kiệt tác Truyện Kiều – một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần “Gia biến và lưu lạc” của tác phẩm, miêu tả tâm trạng đau khổ, cô đơn của Thúy Kiều khi bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích. Qua đoạn trích, tác giả thể hiện nỗi buồn sâu thẳm, sự cô đơn tột cùng và tâm trạng đau đớn của Kiều trước số phận bi thương.

Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du khắc họa không gian rộng lớn, mênh mông nhưng lại vắng vẻ, quạnh hiu:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

 Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.”

Lầu Ngưng Bích là nơi Kiều bị giam lỏng sau khi bị lừa bán vào lầu xanh. Cảnh vật nơi đây được miêu tả bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình: “non xa”, “trăng gần” – cảnh đẹp nhưng lại gợi lên sự lẻ loi, cô đơn. Không gian rộng lớn nhưng tâm hồn Kiều lại nhỏ bé, yếu đuối, không biết nương tựa vào đâu.

“Bốn bề bát ngát xa trông

 Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”

Những hình ảnh “bát ngát”, “cát vàng”, “bụi hồng” càng nhấn mạnh sự trống trải, cô quạnh. Kiều bị đẩy vào một nơi không có người thân, không có điểm tựa, bơ vơ giữa cuộc đời.

Tâm trạng cô đơn, đau khổ của Kiều được thể hiện qua nỗi nhớ những người thân yêu:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Tâm hồn Kiều lúc này giằng xé giữa tình và cảnh. Nàng nhớ đến Kim Trọng – người yêu đang mong đợi:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

 Tin sương luống những rày trông mai chờ.”

Hình ảnh “dưới nguyệt chén đồng” gợi lên mối tình thề nguyền giữa Kiều và Kim Trọng. Nàng day dứt vì không thể giữ trọn lời hẹn ước. Nỗi nhớ thương Kim Trọng càng làm tăng thêm sự đau khổ trong lòng Kiều.

Bên cạnh đó, nàng cũng nhớ đến cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai

 Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?”

Hình ảnh “tựa cửa” diễn tả nỗi chờ mong của cha mẹ, càng làm Kiều thêm đau xót. Nàng lo lắng cho tuổi già của cha mẹ mà không thể báo hiếu, thể hiện lòng hiếu thảo sâu sắc.

Ở phần cuối đoạn trích, tâm trạng Kiều chuyển từ nhớ thương sang lo âu, sợ hãi. Nguyễn Du sử dụng điệp ngữ “Buồn trông” bốn lần để nhấn mạnh sự tuyệt vọng, bế tắc của Kiều:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

 Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”

Cánh buồm xa mờ nơi chân trời gợi lên số phận lênh đênh, vô định của Kiều.

“Buồn trông ngọn nước mới sa

 Hoa trôi man mác, biết là về đâu?”

Hình ảnh “hoa trôi man mác” ẩn dụ cho số phận bấp bênh, không biết trôi dạt về đâu của Kiều.

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu 

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.”

Cảnh vật mang màu sắc héo úa, tiêu điều, phản ánh tâm trạng chán chường, tuyệt vọng của Kiều.

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

 Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Những con sóng dữ dội báo hiệu những tai ương sắp ập đến. Kiều cảm nhận được tương lai đầy bão tố, sóng gió.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất của Truyện Kiều. Nguyễn Du đã thành công khi diễn tả tâm trạng cô đơn, đau khổ và sự lo âu, tuyệt vọng của Thúy Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tinh tế. Qua đó, tác giả bày tỏ niềm xót thương đối với số phận bi kịch của nàng Kiều, đồng thời thể hiện tài năng bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.

Mẫu 2 – Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích lớp 9

Nguyễn Du (1765 – 1820) là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, tác giả của Truyện Kiều – kiệt tác vĩ đại của văn học trung đại Việt Nam. Trong tác phẩm, Nguyễn Du đã xây dựng thành công hình ảnh Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng chịu nhiều bi kịch. 

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần “Gia biến và lưu lạc”, miêu tả tâm trạng đau khổ, cô đơn của Kiều khi bị giam lỏng sau khi bị lừa bán vào lầu xanh. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa nỗi cô đơn, tuyệt vọng cùng dự cảm đầy bất an của Kiều trước tương lai mịt mù.

Ngay từ những câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du đã mở ra một không gian rộng lớn nhưng đầy cô đơn:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

 Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.”

Lầu Ngưng Bích là nơi Kiều bị giam lỏng, bị tước đoạt tự do. Hình ảnh “non xa”, “trăng gần” gợi lên không gian bao la nhưng trống trải. Kiều chỉ có thể nhìn ra cảnh vật mà không thể chạm tới, trăng dù gần nhưng cũng chỉ là thứ vô tri vô giác. Không gian thiên nhiên rộng lớn càng làm nổi bật sự nhỏ bé, lẻ loi của con người.

“Bốn bề bát ngát xa trông

 Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”

Cảnh vật được miêu tả bằng những gam màu nhạt nhòa, mênh mông nhưng vô định. Hình ảnh “cát vàng”, “bụi hồng” diễn tả sự khô cằn, hoang vắng, càng tô đậm tâm trạng bơ vơ, không nơi nương tựa của Kiều.

Sự cô đơn khiến Kiều hướng về những người thân yêu với nỗi nhớ thương da diết. Nàng nhớ về Kim Trọng trước tiên:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

 Tin sương luống những rày trông mai chờ.”

Hình ảnh “dưới nguyệt chén đồng” gợi lại kỷ niệm thề nguyền của Kiều và Kim Trọng. Nàng xót xa khi nghĩ đến người yêu đang mong đợi, trông chờ mà không hay biết mình đã bị cuốn vào vòng xoáy oan nghiệt.

Nỗi nhớ tiếp theo thuộc về cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai

 Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?”

Hình ảnh “tựa cửa” gợi lên cảnh cha mẹ ngày đêm mong ngóng tin con, càng làm Kiều đau đớn và dằn vặt. Nàng lo lắng không ai chăm sóc cha mẹ già yếu, thể hiện tấm lòng hiếu thảo sâu sắc.

Chìm trong nỗi cô đơn và tuyệt vọng, Kiều phóng tầm mắt ra thiên nhiên. Nguyễn Du đã sử dụng điệp ngữ “Buồn trông” bốn lần để diễn tả tâm trạng biến chuyển của Kiều:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

 Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”

Cảnh biển chiều tà gợi lên cảm giác hiu quạnh, con thuyền xa xa như mong manh, vô định. Kiều khao khát được tự do nhưng chẳng biết đến bao giờ mới thoát khỏi cảnh tù đày.

“Buồn trông ngọn nước mới sa

 Hoa trôi man mác, biết là về đâu?”

Hình ảnh “hoa trôi man mác” là ẩn dụ cho số phận trôi dạt, bấp bênh của Kiều. Nàng bị đẩy vào dòng đời vô định, không biết rồi sẽ trôi dạt về phương nào.

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu

 Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.”

Bức tranh thiên nhiên mang màu sắc u buồn, héo úa. Nội cỏ “rầu rầu” phản ánh tâm trạng sầu não, tuyệt vọng của Kiều.

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

 Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Tiếng sóng “ầm ầm” như dự báo những biến cố dữ dội sắp ập đến. Kiều cảm nhận được hiểm nguy đang bủa vây, tương lai mịt mù vô định.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” không chỉ thể hiện tâm trạng đau khổ, cô đơn và dự cảm đầy bất an của Thúy Kiều mà còn là minh chứng cho tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du. 

Ông đã thành công khi sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để diễn tả nội tâm nhân vật. Qua đó, người đọc không chỉ cảm nhận được số phận bi kịch của Thúy Kiều mà còn thấy rõ tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du – niềm cảm thông dành cho con người tài hoa nhưng bạc mệnh.

Xem thêm: Top 10+ mẫu phân tích chuyện người con gái Nam Xương hay

Xem thêm: Mẫu phân tích chị em Thúy Kiều có chọn lọc cho học sinh giỏi

Mẫu 3 – Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Nguyễn Du

Nguyễn Du (1765 – 1820) là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của văn học Việt Nam, với kiệt tác Truyện Kiều – một tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực xã hội phong kiến mà còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc. 

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần Gia biến và lưu lạc, thể hiện tâm trạng cô đơn, đau khổ và lo âu của Thúy Kiều khi bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích. Qua đoạn thơ này, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy để khắc họa nỗi lòng của nàng, giúp người đọc cảm nhận rõ bi kịch cuộc đời Kiều.

Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã vẽ lên khung cảnh thiên nhiên rộng lớn nhưng trống trải, hoang vắng, phản chiếu nỗi cô đơn tột cùng của Kiều:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.”

Hình ảnh “lầu Ngưng Bích” là nơi Kiều bị giam lỏng, cách biệt với thế giới bên ngoài. Từ “khóa xuân” không chỉ nói về tuổi xuân bị giam cầm mà còn thể hiện sự tù túng, mất tự do của Kiều. Cảnh vật trước mắt nàng mênh mông nhưng không có sự sống, chỉ có “non xa” và “tấm trăng” lạnh lẽo – như những người bạn vô tri vô giác đồng hành cùng Kiều trong nỗi cô đơn vô tận.

“Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”

Không gian rộng lớn, bát ngát nhưng lại không có điểm tựa, không có bóng dáng con người. Hình ảnh “cát vàng”, “bụi hồng” gợi lên sự hoang vu, khắc nghiệt, đồng thời tượng trưng cho số phận bấp bênh, trôi dạt của Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật tả cảnh để làm nổi bật tâm trạng cô độc, tuyệt vọng của nàng.

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Nàng Kiều cô đơn suốt ngày đêm, chỉ biết làm bạn với “mây sớm” và “đèn khuya”. Sự lặp lại của thời gian càng nhấn mạnh cuộc sống lẻ loi, tù túng của nàng. Hình ảnh “nửa tình, nửa cảnh” thể hiện tâm trạng giằng xé của Kiều: vừa đau đớn vì thực tại, vừa trĩu nặng những nỗi niềm hướng về những người thân yêu.

Trong cảnh cô đơn ấy, Kiều hướng lòng mình về quá khứ, nhớ thương những người thân yêu nhất của mình. Trước hết, nàng nhớ đến Kim Trọng – mối tình đầu còn dang dở:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”

Hình ảnh “dưới nguyệt chén đồng” gợi lại lời thề nguyền son sắt của Kiều với Kim Trọng. Nhưng giờ đây, khoảng cách giữa họ là “bên trời góc bể”, khiến nàng rơi vào cảm giác bơ vơ, tuyệt vọng. Câu hỏi tu từ “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?” thể hiện sự thủy chung của Kiều, dù bị số phận trêu đùa nhưng nàng vẫn giữ trọn tấm lòng với người yêu.

Sau nỗi nhớ Kim Trọng, Kiều lại đau đáu nghĩ về cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm?”

Nàng lo lắng không biết ai sẽ chăm sóc cha mẹ khi tuổi già bóng xế. Hình ảnh “tựa cửa hôm mai” gợi lên sự mong ngóng, chờ đợi, trong khi “quạt nồng ấp lạnh” thể hiện sự hiếu thảo, lo lắng cho cha mẹ. Nguyễn Du đã sử dụng điển tích “Sân Lai” (chỉ cha mẹ) và “gốc tử” (cây tử – lo lắng cho cha mẹ đã già yếu) để nhấn mạnh lòng hiếu thảo của Kiều.

Từ những hồi tưởng về quá khứ, tâm trạng Kiều chuyển sang nỗi lo sợ mơ hồ về tương lai đầy bão tố. Nguyễn Du đã dùng điệp từ “buồn trông” kết hợp với những hình ảnh thiên nhiên để diễn tả nỗi lòng của Kiều:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”

Hình ảnh “cánh buồm xa xa” tượng trưng cho số phận lênh đênh, bấp bênh của Kiều. “Chiều hôm” gợi lên không gian hoàng hôn buồn bã, làm tăng thêm nỗi cô đơn.

“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?”

Hình ảnh “hoa trôi” là ẩn dụ cho số phận Kiều: nhỏ bé, yếu đuối, bị dòng đời xô đẩy mà không biết sẽ đi về đâu.

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.”

Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” gợi lên sự héo úa, tàn tạ, như chính tâm trạng Kiều. Không gian trải dài nhưng chỉ toàn một màu xanh đơn điệu, thể hiện sự bế tắc, tù túng của nàng.

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Những câu thơ cuối cùng báo hiệu giông tố sắp ập đến. “Gió cuốn”, “sóng kêu ầm ầm” không chỉ là hình ảnh thiên nhiên mà còn tượng trưng cho sóng gió cuộc đời Kiều. Âm thanh dữ dội ấy báo trước bi kịch của nàng khi rơi vào tay Tú Bà và bị đẩy vào lầu xanh.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều: từ cô đơn, nhớ thương đến lo lắng cho tương lai. Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc, kết hợp với điệp từ, hình ảnh giàu sức gợi để lột tả nỗi đau của Kiều. 

Qua đó, tác giả không chỉ khắc họa bi kịch số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà còn thể hiện lòng trắc ẩn, thương cảm sâu sắc đối với họ. Truyện Kiều không chỉ là một kiệt tác văn học mà còn là bản cáo trạng lên án xã hội phong kiến bất công, đồng thời tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất cao quý của con người.

Mẫu 4 – Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, người đã để lại kiệt tác Truyện Kiều – một tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần Gia biến và lưu lạc, tái hiện hoàn cảnh éo le và tâm trạng cô đơn, đau khổ của Thúy Kiều khi bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích. 

Từ một cô gái tài sắc, có tình yêu đẹp với Kim Trọng, nàng bị cuốn vào vòng xoáy bi kịch, rơi vào tay bọn buôn người và trở thành món hàng bị mua bán. Hoàn cảnh của Kiều lúc này không chỉ éo le về mặt thể xác mà còn đau đớn về tinh thần, khi nàng phải đối diện với nỗi cô đơn, tuyệt vọng và những dự cảm đầy lo âu về tương lai.

Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu xanh, Kiều được Tú Bà đưa về lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng, chờ thời cơ ép nàng tiếp khách. Nguyễn Du đã khéo léo dựng lên bức tranh thiên nhiên rộng lớn nhưng hoang vắng, phản chiếu nỗi cô đơn tột cùng của Kiều:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”

Hình ảnh “lầu Ngưng Bích” mang ý nghĩa biểu tượng: đây là nơi giam hãm tuổi xuân của Kiều, nơi nàng bị tách biệt hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài. Cụm từ “khóa xuân” gợi lên sự mất tự do, cuộc đời nàng như bị đóng lại giữa bốn bức tường lạnh lẽo.

Không gian trước lầu Ngưng Bích trải rộng, nhưng lại hoang vắng đến đáng sợ. Nguyễn Du sử dụng những hình ảnh như “bốn bề bát ngát”, “cát vàng”, “bụi hồng” để nhấn mạnh sự mênh mông nhưng vô định của cảnh vật, đồng thời cũng là sự vô vọng của Kiều. 

Nàng nhìn ra xung quanh chỉ thấy thiên nhiên trống trải, không một bóng người, không một lối thoát. Sự rộng lớn của không gian không làm nàng cảm thấy tự do, mà ngược lại càng khiến nàng thêm lẻ loi, bơ vơ, không biết đi đâu về đâu.

Không chỉ bị giam cầm về thể xác, Kiều còn bị giam cầm về tinh thần. Nàng hoàn toàn bất lực, không có ai để chia sẻ nỗi đau, không biết số phận mình sẽ đi về đâu.

Giữa hoàn cảnh bị giam hãm, Thúy Kiều không thể ngừng nhớ về những người thân yêu. Đây là sự giằng xé trong tâm hồn nàng: một mặt là thực tại đau khổ, mặt khác là quá khứ đầy yêu thương mà nàng không thể trở về.

Trước hết, Kiều nhớ đến Kim Trọng – mối tình đầu sâu đậm của mình:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”

Hình ảnh “dưới nguyệt chén đồng” gợi lại lời thề nguyền son sắt giữa Kiều và Kim Trọng. Giờ đây, hai người bị chia cách, Kiều không biết Kim Trọng có còn nhớ đến mình không, có còn chờ đợi mình không. Câu hỏi tu từ “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?” thể hiện sự thủy chung của nàng, nhưng đồng thời cũng chất chứa nỗi đau khôn nguôi khi nàng không thể giữ trọn lời thề.

Sau nỗi nhớ Kim Trọng, Kiều lại quay sang nhớ cha mẹ. Trong hoàn cảnh bị giam cầm, nàng không chỉ đau khổ vì số phận mình mà còn day dứt vì chữ hiếu chưa tròn:

“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm?”

Hình ảnh “tựa cửa hôm mai” gợi lên cảnh cha mẹ Kiều ngày ngày mong ngóng tin con, nhưng vô vọng. Hình ảnh “quạt nồng ấp lạnh” là biểu tượng cho lòng hiếu thảo – nàng đau lòng khi nghĩ đến việc cha mẹ già yếu mà không có ai chăm sóc. Điển tích “Sân Lai”, “gốc tử” càng làm tăng thêm nỗi xót xa của nàng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già đi từng ngày mà mình thì bất lực, không thể trở về phụng dưỡng.

Tâm trạng của Kiều lúc này là sự giằng xé giữa chữ tình và chữ hiếu: nàng yêu Kim Trọng nhưng không thể giữ trọn lời thề, nàng thương cha mẹ nhưng không thể báo hiếu. Nỗi đau ấy càng làm hoàn cảnh của nàng thêm éo le, bi kịch.

Từ nỗi nhớ thương da diết, Kiều bắt đầu đối diện với thực tại và tương lai đen tối đang chờ đợi mình. Nguyễn Du đã sử dụng điệp từ “buồn trông” để nhấn mạnh tâm trạng lo âu, tuyệt vọng của nàng:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
⟶ Cánh buồm xa gợi lên khát khao tự do, nhưng cũng đầy xa vời, vô vọng.

“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?”
⟶ Hình ảnh hoa trôi tượng trưng cho số phận bấp bênh, lênh đênh của Kiều.

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.”
⟶ Không gian u ám phản ánh tâm trạng chán chường, tuyệt vọng của Kiều.

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
⟶ Hình ảnh gió cuốn, sóng dữ dội báo hiệu những tai ương sắp ập đến.

Điệp từ “buồn trông” như những đợt sóng lòng dồn dập, thể hiện tâm trạng lo lắng, bất an của Kiều. Nàng ý thức được rằng phía trước không phải là tự do, mà là những ngày tháng đau khổ, đầy giông tố.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã khắc họa thành công hoàn cảnh éo le và tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều. Nàng bị giam cầm, bị tách biệt khỏi thế giới bên ngoài, phải sống trong nỗi cô đơn tột cùng. Tâm hồn nàng bị giằng xé giữa nỗi nhớ người yêu, thương cha mẹ và lo lắng cho tương lai vô định. 

Qua đoạn trích, Nguyễn Du không chỉ thể hiện nỗi xót thương dành cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà còn cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.

Qua việc phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích, người đọc không chỉ cảm nhận được nỗi cô đơn, tủi nhục và lo lắng của Thúy Kiều mà còn thấu hiểu tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du. 

Đoạn trích là minh chứng cho tài năng miêu tả nội tâm nhân vật bậc thầy và khả năng sử dụng ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc của tác giả. Nhờ đó, hình tượng Thúy Kiều hiện lên chân thực, đầy xúc động và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Bài Viết Liên Quan