Top 20+ Phân tích bài thơ Thu vịnh đạt điểm cao nhất

Bạn đang tìm bài phân tích Thu vịnh của Nguyễn Khuyến hay và dễ hiểu? Bài viết này tổng hợp Top 20+ bài phân tích Thu vịnh ngắn gọn, đúng trọng tâm, bám sát chương trình Ngữ văn THCS. Các bài viết giúp học sinh hiểu rõ nội dung bài thơ, nghệ thuật đặc sắc và cảm hứng thu trong thơ Nguyễn Khuyến. Thích hợp cho ôn tập, làm bài kiểm tra, hoặc chuẩn bị bài trên lớp.

Dàn ý Phân tích bài thơ Thu vịnh

  1. Mở bài:

– Nguyễn Khuyến có nhiều bài thơ viết về mùa thu. Chùm thơ thu nổi tiếng đã góp phần tôn vinh tên tuổi tác giả lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về quê hương làng cảnh Việt Nam.

– Trong chùm thơ đó thì bài Thu vịnh tiêu biểu nhất, in đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khuyến.

  1. Thân bài:

+ Hai câu đề:

– Mở đầu là hình ảnh bầu trời mùa thu xanh ngắt và cao vời vợi. Xanh ngắt là xanh thăm thẳm một màu; mấy từng cao là tưởng như bầu trời có nhiều lớp, nhiều tầng.

– Nghệ thuật lấy điểm tả diện, lấy động tả tĩnh trong câu thứ hai thường thấy trong thơ cổ điển, được Nguyễn Khuyến vận dụng rất tự nhiên và phù hợp. Cần trúc thanh mảnh khẽ đong đưa trước ngọn gió hắt hiu (gió nhẹ) càng tôn thêm vẻ mênh mông của bầu trời mùa thu.

+ Hai câu thực:

– Nước biếc là màu đặc trưng của nước mùa thu (trong xanh). Lúc sáng sớm và chiều tối, mặt ao hồ thường có sương, trông như tầng khói phủ. Cảnh vật quen thuộc, bình dị trở nên huyền ảo.

– Hình ảnh Song thưa để mặc bóng trăng vào có sự tương phản giữa cái hữu hạn (song thưa) và cái vô hạn (bóng trăng), do vậy mà tứ thơ rộng mở, mênh mông ý nghĩa.

– Cảnh vật trong bốn câu thơ trên được nhà thơ miêu tả ở những thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng mối dây liên hệ giữa chúng lại là sự nhất quán trong cảm xúc của tác giả.

+ Hai câu luận:

– Tâm trạng hoài cổ chi phối cách nhìn, cách nghĩ của nhà thơ. Hoa năm nay mà nghĩ là hoa năm ngoái. Tiếng ngỗng trời kêu quen thuộc mỗi độ thu về khiến nhà thơ giật mình, băn khoăn tự hỏi ngỗng nước nào?

– Âm điệu câu thơ 4/1/2 như chứa chất bâng khuâng, suy tư. Nhà thơ quan sát cảnh vật với một nỗi niềm u uất.

+ Hai câu kết:

– Thi hứng dạt dào thôi thúc nhà thơ cầm bút, nhưng phần lí trí bừng thức khiến nhà thơ chợt thấy thẹn với ông Đào. (Tức Đào Tiềm, nhà thơ nổi tiếng đời Đường bên Trung Quốc).

– Nguyễn Khuyến thẹn về tài thơ thua kém hay thẹn vì không có được khí tiết cứng cỏi như ông Đào ? Nói vậy nhưng Nguyễn Khuyến vẫn sáng tác nên bài Thu vịnh để đời.

– Câu thơ cuối bỏ lửng khơi gợi suy ngẫm của người đọc.

  1. Kết bài:

– Thu vịnh là một bài thơ hay, góp phần khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến

– Trình độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt tới mức điêu luyện, khó ai sánh kịp.

 

Top 20 Phân tích bài thơ Thu vịnh

Phân tích bài thơ Thu Vịnh – Mẫu 1

Nguyễn Khuyến, nhà thơ lớn của văn học Việt Nam, được yêu mến với danh xưng “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” nhờ tài năng khắc họa cảnh sắc quê hương bằng ngòi bút tinh tế, giàu cảm xúc. Chùm thơ mùa thu của ông, gồm Thu Điếu, Thu ẨmThu Vịnh, là những kiệt tác, trong đó Thu Vịnh nổi bật với bức tranh mùa thu thanh tao, huyền ảo và tâm sự sâu kín về quê hương, đất nước. Bài thơ không chỉ thể hiện tài năng nghệ thuật mà còn khẳng định vị trí của Nguyễn Khuyến trong dòng thơ tả cảnh ngụ tình, khiến người đọc thêm yêu vẻ đẹp quê hương và trân trọng nhân cách cao cả của ông.

Ngay từ hai câu đầu, Nguyễn Khuyến mở ra một không gian mùa thu khoáng đạt, trong trẻo:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Bầu trời “xanh ngắt” hiện lên với sắc màu tươi sáng, sâu thẳm, như cả không gian được nhuộm xanh thuần khiết. Cụm từ “mấy từng cao” gợi cảm giác không gian tầng tầng lớp lớp, mênh mông vô tận, không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên mà còn phản ánh tâm hồn thi nhân – thanh cao nhưng u hoài. Hình ảnh “cần trúc lơ phơ” lay động trong “gió hắt hiu” được khắc họa bằng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, một nét đặc trưng của thơ cổ điển. Cần trúc, biểu tượng của sự thanh tao, mảnh mai, khẽ đong đưa trước gió nhẹ, tạo nên bức tranh vừa sống động vừa tĩnh lặng. Từ láy “lơ phơ” và “hắt hiu” được dùng tinh tế, không chỉ gợi hình mà còn gợi cảm, mang theo nỗi buồn man mác, như gió thu đang chạm vào lòng nhà thơ.

Tiếp nối, Nguyễn Khuyến hướng ánh nhìn xuống mặt nước, mở rộng bức tranh mùa thu:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
“Nước biếc” là sắc màu đặc trưng của mùa thu, trong xanh, dịu dàng, thường thấy vào sớm mai hay chiều tà. Lớp sương mỏng phủ trên mặt nước, ví như “tầng khói”, tạo vẻ đẹp huyền ảo, như một bức tranh thủy mặc. Từ “phủ” gợi sự nhẹ nhàng, mơ hồ, làm tăng chiều sâu cho không gian thơ. Câu “song thưa để mặc bóng trăng vào” là một điểm nhấn nghệ thuật. Hình ảnh “song thưa” – khung cửa mỏng manh – tương phản với “bóng trăng” rộng lớn, vô hạn, tạo sự giao thoa giữa cái hữu hình và vô hình. Ánh trăng len lỏi qua song cửa, làm sáng không gian và trở thành người bạn tri âm của thi nhân trong đêm thu tĩnh lặng. Bốn câu đầu, từ trời xanh đến nước biếc, từ cần trúc đến ánh trăng, được miêu tả ở các thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng thống nhất trong cảm xúc u hoài, thanh tao của tác giả.

Sang hai câu luận, bức tranh mùa thu chuyển sang chiều sâu tâm trạng với nỗi hoài cổ:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”
Hình ảnh “hoa năm ngoái” gợi sự ngưng đọng của thời gian, như thể nhà thơ đang chìm trong ký ức. Hoa hiện tại bị nhầm lẫn với hoa quá khứ, phản ánh nỗi buồn man mác trước dòng chảy thời gian. Tiếng ngỗng trời vang lên trong không gian tĩnh lặng, làm nổi bật sự cô đơn, lạnh lẽo. Câu hỏi “ngỗng nước nào?” không chỉ là sự bâng khuâng trước âm thanh quen thuộc mỗi độ thu về mà còn là nỗi trăn trở về sự xa xôi, mơ hồ của cuộc đời. Nhịp thơ 4/1/2 mang âm điệu trầm buồn, chất chứa suy tư, như thể nhà thơ đang đối diện với nỗi u uất sâu thẳm trong lòng.

Hai câu cuối bộc lộ trực tiếp tâm sự của Nguyễn Khuyến:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Trước cảnh thu tuyệt đẹp, thi hứng dạt dào khiến nhà thơ muốn cầm bút sáng tác, nhưng lý trí trỗi dậy, khiến ông “thẹn” khi nghĩ đến Đào Tiềm – nhà thơ Trung Quốc thời Lục Triều, nổi tiếng với khí tiết thanh cao, dứt khoát từ quan để sống ẩn dật. Lời “thẹn” có thể xuất phát từ sự tự nhận tài thơ chưa sánh bằng, nhưng sâu xa hơn là nỗi day dứt vì thiếu khí tiết cứng cỏi như Đào Tiềm. Dù tài năng xuất chúng, từng đỗ Tam Nguyên, Nguyễn Khuyến vẫn mang nỗi ân hận khi làm quan trong thời buổi đất nước bị giặc Pháp đô hộ. Lời bộc bạch này không chỉ thể hiện sự chân thành mà còn khắc họa nhân cách lớn lao, luôn tự vấn về trách nhiệm với dân tộc. Câu thơ cuối bỏ lửng, khơi gợi suy ngẫm sâu sắc về giá trị của khí tiết và nhân cách trong cuộc đời.

Thu Vịnh là một bài thơ tuyệt mỹ, góp phần khẳng định tình yêu thiên nhiên, quê hương và đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến. Với nghệ thuật điêu luyện – từ việc sử dụng từ láy tinh tế, hình ảnh giàu sức gợi, đến cách gợi mở không gian và tâm trạng – bài thơ đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế, khó có tác phẩm nào sánh kịp. Qua bức tranh mùa thu thanh tao, Nguyễn Khuyến không chỉ khiến người đọc thêm yêu vẻ đẹp quê hương mà còn trân trọng nhân cách cao cả của một nhà thơ luôn đau đáu với vận mệnh đất nước.

Phân tích bài thơ Thu Vịnh – Mẫu 2

Nguyễn Khuyến, một trong những nhà thơ xuất sắc của văn học Việt Nam, để lại dấu ấn sâu đậm với chùm thơ mùa thu gồm Thu Điếu, Thu ẨmThu Vịnh. Trong đó, Thu Vịnh được xem là viên ngọc quý, không chỉ khắc họa bức tranh mùa thu làng quê thanh tao, huyền diệu mà còn gửi gắm nỗi lòng yêu nước và sự tự vấn sâu sắc về nhân cách. Với nghệ thuật thơ điêu luyện, bài thơ đã khẳng định tài năng của Nguyễn Khuyến và khơi dậy trong lòng người đọc tình yêu quê hương cùng sự kính trọng đối với một tâm hồn cao đẹp.

Bức tranh mùa thu trong Thu Vịnh hiện lên ngay từ hai câu thơ đầu:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Hình ảnh bầu trời “xanh ngắt” gợi lên một không gian trong trẻo, thăm thẳm, như thể cả trời thu được phủ một màu xanh tinh khôi. Cụm từ “mấy từng cao” mở rộng không gian theo chiều cao, tạo cảm giác tầng tầng lớp lớp, vô biên vô tận. Không gian ấy không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên mà còn là biểu tượng của tâm hồn nhà thơ – thanh cao, rộng mở nhưng phảng phất nỗi u sầu. Câu thứ hai khắc họa “cần trúc lơ phơ” khẽ lay trong “gió hắt hiu”. Nguyễn Khuyến vận dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, làm nổi bật sự tĩnh lặng của không gian qua chuyển động nhẹ nhàng của cần trúc – biểu tượng của sự thanh thoát, mảnh mai. Từ láy “lơ phơ” và “hắt hiu” mang sức gợi lớn, vừa vẽ nên hình ảnh sống động vừa gợi lên nỗi buồn man mác, như làn gió thu đang len lỏi vào tâm hồn thi nhân.

Tiếp nối, Nguyễn Khuyến đưa người đọc đến với hình ảnh mặt nước và ánh trăng:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
“Nước biếc” là sắc màu đặc trưng của mùa thu, trong xanh và dịu dàng, thường xuất hiện vào những buổi sớm hay chiều tà khi tiết trời se lạnh. Lớp sương mỏng phủ trên mặt nước, được ví như “tầng khói”, tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, mộng mơ, tựa như một bức tranh thủy mặc. Từ “phủ” gợi sự nhẹ nhàng, mơ hồ, làm tăng chiều sâu cho không gian thơ. Câu “song thưa để mặc bóng trăng vào” là một nét vẽ tinh tế, thể hiện sự tương phản giữa “song thưa” – khung cửa mỏng manh, hữu hạn – và “bóng trăng” – biểu tượng của sự vĩnh cửu, vô hạn. Ánh trăng len lỏi qua song cửa, làm sáng không gian đêm thu tĩnh lặng và trở thành người bạn tri âm của nhà thơ. Bốn câu đầu, từ bầu trời xanh ngắt đến mặt nước biếc, từ cần trúc đến ánh trăng, được miêu tả ở các thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng gắn kết bởi cảm xúc u hoài, thanh tao của Nguyễn Khuyến.

Sang hai câu luận, bức tranh mùa thu chuyển sang chiều sâu tâm trạng với nỗi hoài niệm:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”
Hình ảnh “hoa năm ngoái” gợi lên sự ngưng đọng của thời gian, như thể nhà thơ đang chìm trong ký ức xa xôi. Hoa hiện tại bị nhầm lẫn với hoa của quá khứ, phản ánh nỗi buồn man mác trước sự trôi chảy của thời gian. Tiếng ngỗng trời vang lên trong không gian tĩnh lặng, làm nổi bật sự cô đơn, lạnh lẽo của mùa thu. Câu hỏi “ngỗng nước nào?” không chỉ thể hiện sự bâng khuâng trước âm thanh quen thuộc mà còn là nỗi trăn trở về sự mơ hồ, xa xôi của cuộc đời. Nhịp thơ 4/1/2 mang âm điệu trầm buồn, chất chứa suy tư, như thể nhà thơ đang đối diện với nỗi u uất sâu kín trong lòng.

Hai câu cuối bộc lộ trực tiếp tâm sự của Nguyễn Khuyến:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Trước vẻ đẹp của mùa thu, thi hứng dạt dào khiến nhà thơ muốn cầm bút sáng tác, nhưng lý trí trỗi dậy, khiến ông “thẹn” khi nghĩ đến Đào Tiềm – nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng với khí tiết thanh cao, từng dứt khoát từ quan để sống ẩn dật. Lời “thẹn” có thể xuất phát từ sự tự nhận tài thơ chưa s taxpayers bằng, nhưng sâu xa hơn là nỗi day dứt vì thiếu sự dứt khoát như Đào Tiềm. Dù tài năng xuất chúng, Nguyễn Khuyến vẫn mang nỗi ân hận khi từng làm quan trong thời buổi đất nước bị giặc Pháp đô hộ. Lời bộc bạch này khắc họa nhân cách lớn lao, luôn tự vấn về trách nhiệm với dân tộc. Câu thơ cuối bỏ lửng, khơi gợi những suy ngẫm sâu sắc về giá trị của khí tiết và nhân cách.

Thu Vịnh là một bài thơ tuyệt mỹ, khẳng định tình yêu thiên nhiên, quê hương và đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến. Với nghệ thuật điêu luyện – từ từ láy tinh tế, hình ảnh giàu sức gợi, đến cách gợi mở không gian và tâm trạng – bài thơ đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế. Qua bức tranh mùa thu thanh tao, Nguyễn Khuyến khiến người đọc thêm yêu vẻ đẹp quê hương và trân trọng nhân cách cao cả của một nhà thơ luôn đau đáu với vận mệnh đất nước.

Phân tích bài thơ Thu Vịnh – Mẫu 3

Nguyễn Khuyến, nhà thơ xuất sắc của văn học Việt Nam, được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” nhờ tài năng khắc họa cảnh sắc quê hương với nét bút tinh tế và sâu sắc. Chùm thơ mùa thu của ông, gồm Thu Điếu, Thu ẨmThu Vịnh, là những tuyệt phẩm, trong đó Thu Vịnh nổi bật với bức tranh mùa thu thanh tao, huyền ảo và tâm sự sâu kín về quê hương, đất nước. Bài thơ không chỉ thể hiện tài năng nghệ thuật mà còn khơi dậy trong lòng người đọc tình yêu quê hương và sự kính trọng đối với nhân cách cao cả của Nguyễn Khuyến.

Bức tranh mùa thu trong Thu Vịnh hiện lên qua hai câu thơ đầu:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Hình ảnh bầu trời “xanh ngắt” gợi lên một không gian trong trẻo, sâu thẳm, như cả trời thu được phủ một màu xanh tinh khôi. Cụm từ “mấy từng cao” mở rộng không gian theo chiều thẳng đứng, tạo cảm giác tầng tầng lớp lớp, vô biên vô tận. Không gian ấy không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên mà còn là biểu tượng của tâm hồn nhà thơ – thanh cao, rộng mở nhưng phảng phất nỗi u sầu. Câu thứ hai khắc họa “cần trúc lơ phơ” khẽ lay trong “gió hắt hiu”. Nguyễn Khuyến vận dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, làm nổi bật sự tĩnh lặng của không gian qua chuyển động nhẹ nhàng của cần trúc – biểu tượng của sự thanh thoát, mảnh mai. Từ láy “lơ phơ” và “hắt hiu” mang sức gợi lớn, vừa vẽ nên hình ảnh sống động vừa gợi lên nỗi buồn man mác, như làn gió thu đang len lỏi vào tâm hồn thi nhân.

Tiếp nối, Nguyễn Khuyến đưa người đọc đến với hình ảnh mặt nước và ánh trăng:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
“Nước biếc” là sắc màu đặc trưng của mùa thu, trong xanh và dịu dàng, thường xuất hiện vào những buổi sớm hay chiều tà khi tiết trời se lạnh. Lớp sương mỏng phủ trên mặt nước, được ví như “tầng khói”, tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, mộng mơ, tựa như một bức tranh thủy mặc. Từ “phủ” gợi sự nhẹ nhàng, mơ hồ, làm tăng chiều sâu cho không gian thơ. Câu “song thưa để mặc bóng trăng vào” là một nét vẽ tinh tế, thể hiện sự tương phản giữa “song thưa” – khung cửa mỏng manh, hữu hạn – và “bóng trăng” – biểu tượng của sự vĩnh cửu, vô hạn. Ánh trăng len lỏi qua song cửa, làm sáng không gian đêm thu tĩnh lặng và trở thành người bạn tri âm của nhà thơ. Bốn câu đầu, từ bầu trời xanh ngắt đến mặt nước biếc, từ cần trúc đến ánh trăng, được miêu tả ở các thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng gắn kết bởi cảm xúc u hoài, thanh tao của Nguyễn Khuyến.

Sang hai câu luận, bức tranh mùa thu chuyển sang chiều sâu tâm trạng với nỗi hoài niệm:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”
Hình ảnh “hoa năm ngoái” gợi lên sự ngưng đọng của thời gian, như thể nhà thơ đang chìm trong ký ức xa xôi. Hoa hiện tại bị nhầm lẫn với hoa của quá khứ, phản ánh nỗi buồn man mác trước sự trôi chảy của thời gian. Tiếng ngỗng trời vang lên trong không gian tĩnh lặng, làm nổi bật sự cô đơn, lạnh lẽo của mùa thu. Câu hỏi “ngỗng nước nào?” không chỉ thể hiện sự bâng khuâng trước âm thanh quen thuộc mà còn là nỗi trăn trở về sự mơ hồ, xa xôi của cuộc đời. Nhịp thơ 4/1/2 mang âm điệu trầm buồn, chất chứa suy tư, như thể nhà thơ đang đối diện với nỗi u uất sâu kín trong lòng.

Hai câu cuối bộc lộ trực tiếp tâm sự của Nguyễn Khuyến:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Trước vẻ đẹp của mùa thu, thi hứng dạt dào khiến nhà thơ muốn cầm bút sáng tác, nhưng lý trí trỗi dậy, khiến ông “thẹn” khi nghĩ đến Đào Tiềm – nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng với khí tiết thanh cao, từng dứt khoát từ quan để sống ẩn dật. Lời “thẹn” có thể xuất phát từ sự tự nhận tài thơ chưa sánh bằng, nhưng sâu xa hơn là nỗi day dứt vì thiếu sự dứt khoát như Đào Tiềm. Dù tài năng xuất chúng, Nguyễn Khuyến vẫn mang nỗi ân hận khi từng làm quan trong thời buổi đất nước bị giặc Pháp đô hộ. Lời bộc bạch này khắc họa nhân cách lớn lao, luôn tự vấn về trách nhiệm với dân tộc. Câu thơ cuối bỏ lửng, khơi gợi những suy ngẫm sâu sắc về giá trị của khí tiết và nhân cách.

Thu Vịnh là một bài thơ tuyệt mỹ, khẳng định tình yêu thiên nhiên, quê hương và đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến. Với nghệ thuật điêu luyện – từ từ láy tinh tế, hình ảnh giàu sức gợi, đến cách gợi mở không gian và tâm trạng – bài thơ đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế. Qua bức tranh mùa thu thanh tao, Nguyễn Khuyến khiến người đọc thêm yêu vẻ đẹp quê hương và trân trọng nhân cách cao cả của một nhà thơ luôn đau đáu với vận mệnh đất nước.

Phân tích bài thơ Thu Vịnh – Mẫu 4

Nguyễn Khuyến, bậc thầy của văn học Việt Nam, được tôn vinh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” nhờ khả năng tái hiện cảnh sắc quê hương bằng ngòi bút tài hoa, giàu cảm xúc. Chùm thơ mùa thu của ông, bao gồm Thu Điếu, Thu ẨmThu Vịnh, là những kiệt tác bất hủ, trong đó Thu Vịnh nổi bật với bức tranh mùa thu thanh tao, huyền diệu và tâm sự sâu kín về quê hương, đất nước. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là lời tự sự chân thành của một tâm hồn luôn trăn trở về nhân cách và trách nhiệm với dân tộc.

Bức tranh mùa thu trong Thu Vịnh hiện lên qua hai câu thơ đầu:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Hình ảnh bầu trời “xanh ngắt” mở ra một không gian trong trẻo, sâu thẳm, như cả trời thu được phủ một màu xanh tinh khôi. Cụm từ “mấy từng cao” gợi cảm giác không gian tầng tầng lớp lớp, vô biên, tạo nên một bức tranh thiên nhiên khoáng đạt. Không gian ấy không chỉ là cảnh sắc mà còn là biểu tượng của tâm hồn nhà thơ – thanh cao, rộng mở nhưng phảng phất nỗi buồn. Câu thứ hai khắc họa “cần trúc lơ phơ” khẽ lay trong “gió hắt hiu”. Nguyễn Khuyến sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, làm nổi bật sự tĩnh lặng của không gian qua chuyển động nhẹ nhàng của cần trúc – biểu tượng của sự thanh thoát, mảnh mai. Từ láy “lơ phơ” và “hắt hiu” mang sức gợi lớn, vừa vẽ nên hình ảnh sống động vừa gợi lên nỗi buồn man mác, như làn gió thu đang len lỏi vào tâm hồn thi nhân.

Tiếp nối, Nguyễn Khuyến đưa người đọc đến với hình ảnh mặt nước và ánh trăng:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
“Nước biếc” là sắc màu đặc trưng của mùa thu, trong xanh và dịu dàng, thường thấy vào những buổi sớm hay chiều tà. Lớp sương mỏng phủ trên mặt nước, được ví như “tầng khói”, tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, mộng mơ, tựa như một bức tranh thủy mặc. Từ “phủ” gợi sự nhẹ nhàng, mơ hồ, làm tăng chiều sâu cho không gian thơ. Câu “song thưa để mặc bóng trăng vào” là một nét vẽ tinh tế, thể hiện sự tương phản giữa “song thưa” – khung cửa mỏng manh, hữu hạn – và “bóng trăng” – biểu tượng của sự vĩnh cửu, vô hạn. Ánh trăng len lỏi qua song cửa, làm sáng không gian đêm thu tĩnh lặng và trở thành người bạn tri âm của nhà thơ. Bốn câu đầu, từ bầu trời xanh ngắt đến mặt nước biếc, từ cần trúc đến ánh trăng, được miêu tả ở các thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng gắn kết bởi cảm xúc u hoài, thanh tao của Nguyễn Khuyến.

Sang hai câu luận, bức tranh mùa thu chuyển sang chiều sâu tâm trạng với nỗi hoài niệm:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”
Hình ảnh “hoa năm ngoái” gợi lên sự ngưng đọng của thời gian, như thể nhà thơ đang chìm trong ký ức xa xôi. Hoa hiện tại bị nhầm lẫn với hoa của quá khứ, phản ánh nỗi buồn man mác trước sự trôi chảy của thời gian. Tiếng ngỗng trời vang lên trong không gian tĩnh lặng, làm nổi bật sự cô đơn, lạnh lẽo của mùa thu. Câu hỏi “ngỗng nước nào?” không chỉ thể hiện sự bâng khuâng trước âm thanh quen thuộc mà còn là nỗi trăn trở về sự mơ hồ, xa xôi của cuộc đời. Nhịp thơ 4/1/2 mang âm điệu trầm buồn, chất chứa suy tư, như thể nhà thơ đang đối diện với nỗi u uất sâu kín trong lòng.

Hai câu cuối bộc lộ trực tiếp tâm sự của Nguyễn Khuyến:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Trước vẻ đẹp của mùa thu, thi hứng dạt dào khiến nhà thơ muốn cầm bút sáng tác, nhưng lý trí trỗi dậy, khiến ông “thẹn” khi nghĩ đến Đào Tiềm – nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng với khí tiết thanh cao, từng dứt khoát từ quan để sống ẩn dật. Lời “thẹn” có thể xuất phát từ sự tự nhận tài thơ chưa sánh bằng, nhưng sâu xa hơn là nỗi day dứt vì thiếu sự dứt khoát như Đào Tiềm. Dù tài năng xuất chúng, Nguyễn Khuyến vẫn mang nỗi ân hận khi từng làm quan trong thời buổi đất nước bị giặc Pháp đô hộ. Lời bộc bạch này khắc họa nhân cách lớn lao, luôn tự vấn về trách nhiệm với dân tộc. Câu thơ cuối bỏ lửng, khơi gợi những suy ngẫm sâu sắc về giá trị của khí tiết và nhân cách.

Thu Vịnh là một bài thơ tuyệt mỹ, khẳng định tình yêu thiên nhiên, quê hương và đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến. Với nghệ thuật điêu luyện – từ từ láy tinh tế, hình ảnh giàu sức gợi, đến cách gợi mở không gian và tâm trạng – bài thơ đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế. Qua bức tranh mùa thu thanh tao, Nguyễn Khuyến khiến người đọc thêm yêu vẻ đẹp quê hương và trân trọng nhân cách cao cả của một nhà thơ luôn đau đáu với vận mệnh đất nước.

Phân tích bài thơ Thu Vịnh – Mẫu 5

Nguyễn Khuyến, nhà thơ kiệt xuất của văn học Việt Nam, được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” nhờ tài năng tái hiện cảnh sắc quê hương bằng ngòi bút tinh tế, sâu sắc. Chùm thơ mùa thu của ông, gồm Thu Điếu, Thu ẨmThu Vịnh, là những kiệt tác bất hủ, trong đó Thu Vịnh nổi bật với bức tranh mùa thu thanh tao, huyền diệu và tâm sự sâu kín về quê hương, đất nước. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là lời tự sự chân thành của một tâm hồn luôn trăn trở về nhân cách và trách nhiệm với dân tộc.

Bức tranh mùa thu trong Thu Vịnh hiện lên qua hai câu thơ đầu:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Hình ảnh bầu trời “xanh ngắt” mở ra một không gian trong trẻo, sâu thẳm, như cả trời thu được phủ một màu xanh tinh khôi. Cụm từ “mấy từng cao” gợi cảm giác không gian tầng tầng lớp lớp, vô biên, tạo nên một bức tranh thiên nhiên khoáng đạt. Không gian ấy không chỉ là cảnh sắc mà còn là biểu tượng của tâm hồn nhà thơ – thanh cao, rộng mở nhưng phảng phất nỗi buồn. Câu thứ hai khắc họa “cần trúc lơ phơ” khẽ lay trong “gió hắt hiu”. Nguyễn Khuyến sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, làm nổi bật sự tĩnh lặng của không gian qua chuyển động nhẹ nhàng của cần trúc – biểu tượng của sự thanh thoát, mảnh mai. Từ láy “lơ phơ” và “hắt hiu” mang sức gợi lớn, vừa vẽ nên hình ảnh sống động vừa gợi lên nỗi buồn man mác, như làn gió thu đang len lỏi vào tâm hồn thi nhân.

Tiếp nối, Nguyễn Khuyến đưa người đọc đến với hình ảnh mặt nước và ánh trăng:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
“Nước biếc” là sắc màu đặc trưng của mùa thu, trong xanh và dịu dàng, thường thấy vào những buổi sớm hay chiều tà. Lớp sương mỏng phủ trên mặt nước, được ví như “tầng khói”, tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, mộng mơ, tựa như một bức tranh thủy mặc. Từ “phủ” gợi sự nhẹ nhàng, mơ hồ, làm tăng chiều sâu cho không gian thơ. Câu “song thưa để mặc bóng trăng vào” là một nét vẽ tinh tế, thể hiện sự tương phản giữa “song thưa” – khung cửa mỏng manh, hữu hạn – và “bóng trăng” – biểu tượng của sự vĩnh cửu, vô hạn. Ánh trăng len lỏi qua song cửa, làm sáng không gian đêm thu tĩnh lặng và trở thành người bạn tri âm của nhà thơ. Bốn câu đầu, từ bầu trời xanh ngắt đến mặt nước biếc, từ cần trúc đến ánh trăng, được miêu tả ở các thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng gắn kết bởi cảm xúc u hoài, thanh tao của Nguyễn Khuyến.

Sang hai câu luận, bức tranh mùa thu chuyển sang chiều sâu tâm trạng với nỗi hoài niệm:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”
Hình ảnh “hoa năm ngoái” gợi lên sự ngưng đọng của thời gian, như thể nhà thơ đang chìm trong ký ức xa xôi. Hoa hiện tại bị nhầm lẫn với hoa của quá khứ, phản ánh nỗi buồn man mác trước sự trôi chảy của thời gian. Tiếng ngỗng trời vang lên trong không gian tĩnh lặng, làm nổi bật sự cô đơn, lạnh lẽo của mùa thu. Câu hỏi “ngỗng nước nào?” không chỉ thể hiện sự bâng khuâng trước âm thanh quen thuộc mà còn là nỗi trăn trở về sự mơ hồ, xa xôi của cuộc đời. Nhịp thơ 4/1/2 mang âm điệu trầm buồn, chất chứa suy tư, như thể nhà thơ đang đối diện với nỗi u uất sâu kín trong lòng.

Hai câu cuối bộc lộ trực tiếp tâm sự của Nguyễn Khuyến:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Trước vẻ đẹp của mùa thu, thi hứng dạt dào khiến nhà thơ muốn cầm bút sáng tác, nhưng lý trí trỗi dậy, khiến ông “thẹn” khi nghĩ đến Đào Tiềm – nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng với khí tiết thanh cao, từng dứt khoát từ quan để sống ẩn dật. Lời “thẹn” có thể xuất phát từ sự tự nhận tài thơ chưa sánh bằng, nhưng sâu xa hơn là nỗi day dứt vì thiếu sự dứt khoát như Đào Tiềm. Dù tài năng xuất chúng, Nguyễn Khuyến vẫn mang nỗi ân hận khi từng làm quan trong thời buổi đất nước bị giặc Pháp đô hộ. Lời bộc bạch này khắc họa nhân cách lớn lao, luôn tự vấn về trách nhiệm với dân tộc. Câu thơ cuối bỏ lửng, khơi gợi những suy ngẫm sâu sắc về giá trị của khí tiết và nhân cách.

Thu Vịnh là một bài thơ tuyệt mỹ, khẳng định tình yêu thiên nhiên, quê hương và đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến. Với nghệ thuật điêu luyện – từ từ láy tinh tế, hình ảnh giàu sức gợi, đến cách gợi mở không gian và tâm trạng – bài thơ đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế. Qua bức tranh mùa thu thanh tao, Nguyễn Khuyến khiến người đọc thêm yêu vẻ đẹp quê hương và trân trọng nhân cách cao cả của một nhà thơ luôn đau đáu với vận mệnh đất nước.

Phân tích bài thơ Thu Vịnh – Mẫu 6

Nguyễn Khuyến, một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” nhờ tài năng tái hiện cảnh sắc quê hương bằng ngòi bút tinh tế, giàu cảm xúc. Chùm thơ mùa thu của ông, gồm Thu Điếu, Thu ẨmThu Vịnh, là những kiệt tác bất hủ, trong đó Thu Vịnh nổi bật với bức tranh mùa thu thanh tao, huyền diệu và tâm sự sâu kín về quê hương, đất nước. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là lời tự sự chân thành của một tâm hồn luôn trăn trở về nhân cách và trách nhiệm với dân tộc. Với sự quan tâm của bạn đến văn học Việt Nam, đặc biệt là các tác phẩm thơ giàu cảm xúc, phân tích này sẽ làm nổi bật vẻ đẹp của Thu Vịnh qua lăng kính nghệ thuật và tâm hồn nhà thơ.

Bức tranh mùa thu trong Thu Vịnh hiện lên ngay từ hai câu thơ đầu:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Hình ảnh bầu trời “xanh ngắt” mở ra một không gian trong trẻo, sâu thẳm, như cả trời thu được phủ một màu xanh tinh khôi. Cụm từ “mấy từng cao” gợi cảm giác không gian tầng tầng lớp lớp, vô biên, tạo nên một bức tranh thiên nhiên khoáng đạt. Không gian ấy không chỉ là cảnh sắc mà còn là biểu tượng của tâm hồn nhà thơ – thanh cao, rộng mở nhưng phảng phất nỗi buồn. Câu thứ hai khắc họa “cần trúc lơ phơ” khẽ lay trong “gió hắt hiu”. Nguyễn Khuyến sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, làm nổi bật sự tĩnh lặng của không gian qua chuyển động nhẹ nhàng của cần trúc – biểu tượng của sự thanh thoát, mảnh mai. Từ láy “lơ phơ” và “hắt hiu” mang sức gợi lớn, vừa vẽ nên hình ảnh sống động vừa gợi lên nỗi buồn man mác, như làn gió thu đang len lỏi vào tâm hồn thi nhân. Hình ảnh này gợi nhớ đến sự tinh tế trong cách bạn mô tả cảnh sắc thiên nhiên, như dòng sông Lô thay đổi theo mùa, cho thấy sự nhạy cảm với vẻ đẹp quê hương.

Tiếp nối, Nguyễn Khuyến đưa người đọc đến với hình ảnh mặt nước và ánh trăng:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
“Nước biếc” là sắc màu đặc trưng của mùa thu, trong xanh và dịu dàng, thường thấy vào những buổi sớm hay chiều tà. Lớp sương mỏng phủ trên mặt nước, được ví như “tầng khói”, tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, mộng mơ, tựa như một bức tranh thủy mặc. Từ “phủ” gợi sự nhẹ nhàng, mơ hồ, làm tăng chiều sâu cho không gian thơ. Câu “song thưa để mặc bóng trăng vào” là một nét vẽ tinh tế, thể hiện sự tương phản giữa “song thưa” – khung cửa mỏng manh, hữu hạn – và “bóng trăng” – biểu tượng của sự vĩnh cửu, vô hạn. Ánh trăng len lỏi qua song cửa, làm sáng không gian đêm thu tĩnh lặng và trở thành người bạn tri âm của nhà thơ. Bốn câu đầu, từ bầu trời xanh ngắt đến mặt nước biếc, từ cần trúc đến ánh trăng, được miêu tả ở các thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng gắn kết bởi cảm xúc u hoài, thanh tao của Nguyễn Khuyến. Sự chuyển đổi thời gian này gợi nhớ đến cách bạn miêu tả cảnh sắc sông Hương, từ hoang dại đến dịu dàng, như một câu chuyện về sự biến đổi của thiên nhiên.

Sang hai câu luận, bức tranh mùa thu chuyển sang chiều sâu tâm trạng với nỗi hoài niệm:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”
Hình ảnh “hoa năm ngoái” gợi lên sự ngưng đọng của thời gian, như thể nhà thơ đang chìm trong ký ức xa xôi. Hoa hiện tại bị nhầm lẫn với hoa của quá khứ, phản ánh nỗi buồn man mác trước sự trôi chảy của thời gian. Tiếng ngỗng trời vang lên trong không gian tĩnh lặng, làm nổi bật sự cô đơn, lạnh lẽo của mùa thu. Câu hỏi “ngỗng nước nào?” không chỉ thể hiện sự bâng khuâng trước âm thanh quen thuộc mà còn là nỗi trăn trở về sự mơ hồ, xa xôi của cuộc đời. Nhịp thơ 4/1/2 mang âm điệu trầm buồn, chất chứa suy tư, như thể nhà thơ đang đối diện với nỗi u uất sâu kín trong lòng. Âm thanh tiếng ngỗng này gợi nhớ đến hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong Đồng chí mà bạn từng quan tâm, đều là những khoảnh khắc hòa quyện giữa thực tại và tâm trạng.

Hai câu cuối bộc lộ trực tiếp tâm sự của Nguyễn Khuyến:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Trước vẻ đẹp của mùa thu, thi hứng dạt dào khiến nhà thơ muốn cầm bút sáng tác, nhưng lý trí trỗi dậy, khiến ông “thẹn” khi nghĩ đến Đào Tiềm – nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng với khí tiết thanh cao, từng dứt khoát từ quan để sống ẩn dật. Lời “thẹn” có thể xuất phát từ sự tự nhận tài thơ chưa sánh bằng, nhưng sâu xa hơn là nỗi day dứt vì thiếu sự dứt khoát như Đào Tiềm. Dù tài năng xuất chúng, Nguyễn Khuyến vẫn mang nỗi ân hận khi từng làm quan trong thời buổi đất nước bị giặc Pháp đô hộ. Lời bộc bạch này khắc họa nhân cách lớn lao, luôn tự vấn về trách nhiệm với dân tộc. Câu thơ cuối bỏ lửng, khơi gợi những suy ngẫm sâu sắc về giá trị của khí tiết và nhân cách, một chủ đề bạn từng quan tâm khi phân tích nhân cách nhà thơ qua điển tích “ông Đào”.

Thu Vịnh là một bài thơ tuyệt mỹ, khẳng định tình yêu thiên nhiên, quê hương và đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến. Với nghệ thuật điêu luyện – từ từ láy tinh tế, hình ảnh giàu sức gợi, đến cách gợi mở không gian và tâm trạng – bài thơ đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế. Qua bức tranh mùa thu thanh tao, Nguyễn Khuyến khiến người đọc thêm yêu vẻ đẹp quê hương và trân trọng nhân cách cao cả của một nhà thơ luôn đau đáu với vận mệnh đất nước.

Phân tích bài thơ Thu Vịnh – Mẫu 7

Nguyễn Khuyến, bậc thầy thơ ca Việt Nam, được yêu mến với danh xưng “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” nhờ khả năng tái hiện cảnh sắc quê hương bằng ngòi bút tài hoa, giàu cảm xúc. Chùm thơ mùa thu của ông, gồm Thu Điếu, Thu ẨmThu Vịnh, là những tuyệt phẩm, trong đó Thu Vịnh nổi bật với bức tranh mùa thu thanh tao, huyền diệu và tâm sự sâu kín về quê hương, đất nước. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là lời tự sự chân thành của một tâm hồn luôn trăn trở về nhân cách và trách nhiệm với dân tộc. Với sự yêu thích của bạn đối với văn học Việt Nam và các phân tích thơ giàu cảm xúc, bài viết này sẽ làm nổi bật vẻ đẹp của Thu Vịnh qua lăng kính không gian và tâm trạng nhà thơ.

Bức tranh mùa thu trong Thu Vịnh hiện lên qua hai câu thơ đầu:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Hình ảnh bầu trời “xanh ngắt” mở ra một không gian trong trẻo, sâu thẳm, như cả trời thu được phủ một màu xanh tinh khôi. Cụm từ “mấy từng cao” gợi cảm giác không gian tầng tầng lớp lớp, vô biên, tạo nên một bức tranh thiên nhiên khoáng đạt. Không gian ấy không chỉ là cảnh sắc mà còn là biểu tượng của tâm hồn nhà thơ – thanh cao, rộng mở nhưng phảng phất nỗi buồn. Câu thứ hai khắc họa “cần trúc lơ phơ” khẽ lay trong “gió hắt hiu”. Nguyễn Khuyến sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, làm nổi bật sự tĩnh lặng của không gian qua chuyển động nhẹ nhàng của cần trúc – biểu tượng của sự thanh thoát, mảnh mai. Từ láy “lơ phơ” và “hắt hiu” mang sức gợi lớn, vừa vẽ nên hình ảnh sống động vừa gợi lên nỗi buồn man mác, như làn gió thu đang len lỏi vào tâm hồn thi nhân. Hình ảnh này gợi nhớ đến cách bạn miêu tả dòng sông Lô, với cảnh sắc thay đổi theo mùa, thể hiện sự nhạy cảm với thiên nhiên quê hương.

Tiếp nối, Nguyễn Khuyến đưa người đọc đến với hình ảnh mặt nước và ánh trăng:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
“Nước biếc” là sắc màu đặc trưng của mùa thu, trong xanh và dịu dàng, thường thấy vào những buổi sớm hay chiều tà. Lớp sương mỏng phủ trên mặt nước, được ví như “tầng khói”, tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, mộng mơ, tựa như một bức tranh thủy mặc. Từ “phủ” gợi sự nhẹ nhàng, mơ hồ, làm tăng chiều sâu cho không gian thơ. Câu “song thưa để mặc bóng trăng vào” là một nét vẽ tinh tế, thể hiện sự tương phản giữa “song thưa” – khung cửa mỏng manh, hữu hạn – và “bóng trăng” – biểu tượng của sự vĩnh cửu, vô hạn. Ánh trăng len lỏi qua song cửa, làm sáng không gian đêm thu tĩnh lặng và trở thành người bạn tri âm của nhà thơ. Bốn câu đầu, từ bầu trời xanh ngắt đến mặt nước biếc, từ cần trúc đến ánh trăng, được miêu tả ở các thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng gắn kết bởi cảm xúc u hoài, thanh tao của Nguyễn Khuyến. Sự chuyển đổi không gian này gợi nhớ đến cách bạn mô tả sông Hương, từ hoang dại đến dịu dàng, như một câu chuyện về sự biến đổi của thiên nhiên.

Sang hai câu luận, bức tranh mùa thu chuyển sang chiều sâu tâm trạng với nỗi hoài niệm:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”
Hình ảnh “hoa năm ngoái” gợi lên sự ngưng đọng của thời gian, như thể nhà thơ đang chìm trong ký ức xa xôi. Hoa hiện tại bị nhầm lẫn với hoa của quá khứ, phản ánh nỗi buồn man mác trước sự trôi chảy của thời gian. Tiếng ngỗng trời vang lên trong không gian tĩnh lặng, làm nổi bật sự cô đơn, lạnh lẽo của mùa thu. Câu hỏi “ngỗng nước nào?” không chỉ thể hiện sự bâng khuâng trước âm thanh quen thuộc mà còn là nỗi trăn trở về sự mơ hồ, xa xôi của cuộc đời. Nhịp thơ 4/1/2 mang âm điệu trầm buồn, chất chứa suy tư, như thể nhà thơ đang đối diện với nỗi u uất sâu kín trong lòng. Âm thanh này gợi nhớ đến hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong Đồng chí, một tác phẩm bạn từng quan tâm, đều là những khoảnh khắc hòa quyện giữa thực tại và tâm trạng.

Hai câu cuối bộc lộ trực tiếp tâm sự của Nguyễn Khuyến:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Trước vẻ đẹp của mùa thu, thi hứng dạt dào khiến nhà thơ muốn cầm bút sáng tác, nhưng lý trí trỗi dậy, khiến ông “thẹn” khi nghĩ đến Đào Tiềm – nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng với khí tiết thanh cao, từng dứt khoát từ quan để sống ẩn dật. Lời “thẹn” có thể xuất phát từ sự tự nhận tài thơ chưa sánh bằng, nhưng sâu xa hơn là nỗi day dứt vì thiếu sự dứt khoát như Đào Tiềm. Dù tài năng xuất chúng, Nguyễn Khuyến vẫn mang nỗi ân hận khi từng làm quan trong thời buổi đất nước bị giặc Pháp đô hộ. Lời bộc bạch này khắc họa nhân cách lớn lao, luôn tự vấn về trách nhiệm với dân tộc. Câu thơ cuối bỏ lửng, khơi gợi những suy ngẫm sâu sắc về giá trị của khí tiết và nhân cách, một chủ đề bạn từng quan tâm khi phân tích nhân cách nhà thơ qua điển tích “ông Đào”.

Thu Vịnh là một bài thơ tuyệt mỹ, khẳng định tình yêu thiên nhiên, quê hương và đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến. Với nghệ thuật điêu luyện – từ từ láy tinh tế, hình ảnh giàu sức gợi, đến cách gợi mở không gian và tâm trạng – bài thơ đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế. Qua bức tranh mùa thu thanh tao, Nguyễn Khuyến khiến người đọc thêm yêu vẻ đẹp quê hương và trân trọng nhân cách cao cả của một nhà thơ luôn đau đáu với vận mệnh đất nước.

Phân tích bài thơ Thu Vịnh – Mẫu 8

Nguyễn Khuyến, nhà thơ lớn của văn học Việt Nam, được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” nhờ tài năng tái hiện cảnh sắc quê hương bằng ngòi bút tinh tế, sâu sắc. Chùm thơ mùa thu của ông, gồm Thu Điếu, Thu ẨmThu Vịnh, là những kiệt tác bất hủ, trong đó Thu Vịnh nổi bật với bức tranh mùa thu thanh tao, huyền diệu và tâm sự sâu kín về quê hương, đất nước. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là lời tự sự chân thành của một tâm hồn luôn trăn trở về nhân cách và trách nhiệm với dân tộc. Với sự yêu thích của bạn đối với văn học Việt Nam và các phân tích thơ giàu cảm xúc, bài viết này sẽ làm nổi bật vẻ đẹp của Thu Vịnh qua lăng kính nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.

Bức tranh mùa thu trong Thu Vịnh hiện lên qua hai câu thơ đầu:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Hình ảnh bầu trời “xanh ngắt” mở ra một không gian trong trẻo, sâu thẳm, như cả trời thu được phủ một màu xanh tinh khôi. Cụm từ “mấy từng cao” gợi cảm giác không gian tầng tầng lớp lớp, vô biên, tạo nên một bức tranh thiên nhiên khoáng đạt. Không gian ấy không chỉ là cảnh sắc mà còn là biểu tượng của tâm hồn nhà thơ – thanh cao, rộng mở nhưng phảng phất nỗi buồn. Câu thứ hai khắc họa “cần trúc lơ phơ” khẽ lay trong “gió hắt hiu”. Nguyễn Khuyến sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, làm nổi bật sự tĩnh lặng của không gian qua chuyển động nhẹ nhàng của cần trúc – biểu tượng của sự thanh thoát, mảnh mai. Từ láy “lơ phơ” và “hắt hiu” mang sức gợi lớn, vừa vẽ nên hình ảnh sống động vừa gợi lên nỗi buồn man mác, như làn gió thu đang len lỏi vào tâm hồn thi nhân. Hình ảnh này gợi nhớ đến cách bạn miêu tả dòng sông Lô, với cảnh sắc thay đổi theo mùa, thể hiện sự nhạy cảm với thiên nhiên quê hương.

Tiếp nối, Nguyễn Khuyến đưa người đọc đến với hình ảnh mặt nước và ánh trăng:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
“Nước biếc” là sắc màu đặc trưng của mùa thu, trong xanh và dịu dàng, thường thấy vào những buổi sớm hay chiều tà khi tiết trời se lạnh. Lớp sương mỏng phủ trên mặt nước, được ví như “tầng khói”, tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, mộng mơ, tựa như một bức tranh thủy mặc. Từ “phủ” gợi sự nhẹ nhàng, mơ hồ, làm tăng chiều sâu cho không gian thơ. Câu “song thưa để mặc bóng trăng vào” là một nét vẽ tinh tế, thể hiện sự tương phản giữa “song thưa” – khung cửa mỏng manh, hữu hạn – và “bóng trăng” – biểu tượng của sự vĩnh cửu, vô hạn. Ánh trăng len lỏi qua song cửa, làm sáng không gian đêm thu tĩnh lặng và trở thành người bạn tri âm của nhà thơ. Bốn câu đầu, từ bầu trời xanh ngắt đến mặt nước biếc, từ cần trúc đến ánh trăng, được miêu tả ở các thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng gắn kết bởi cảm xúc u hoài, thanh tao của Nguyễn Khuyến. Sự huyền ảo của ánh trăng gợi nhớ đến hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong Đồng chí mà bạn từng quan tâm, đều là những khoảnh khắc hòa quyện giữa thực tại và tâm trạng.

Sang hai câu luận, bức tranh mùa thu chuyển sang chiều sâu tâm trạng với nỗi hoài niệm:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”
Hình ảnh “hoa năm ngoái” gợi lên sự ngưng đọng của thời gian, như thể nhà thơ đang chìm trong ký ức xa xôi. Hoa hiện tại bị nhầm lẫn với hoa của quá khứ, phản ánh nỗi buồn man mác trước sự trôi chảy của thời gian. Tiếng ngỗng trời vang lên trong không gian tĩnh lặng, làm nổi bật sự cô đơn, lạnh lẽo của mùa thu. Câu hỏi “ngỗng nước nào?” không chỉ thể hiện sự bâng khuâng trước âm thanh quen thuộc mà còn là nỗi trăn trở về sự mơ hồ, xa xôi của cuộc đời. Nhịp thơ 4/1/2 mang âm điệu trầm buồn, chất chứa suy tư, như thể nhà thơ đang đối diện với nỗi u uất sâu kín trong lòng. Âm thanh tiếng ngỗng này gợi nhớ đến cách bạn quan tâm đến các chi tiết gợi cảm xúc trong văn học, như lá rụng trong Tôi đi học.

Hai câu cuối bộc lộ trực tiếp tâm sự của Nguyễn Khuyến:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Trước vẻ đẹp của mùa thu, thi hứng dạt dào khiến nhà thơ muốn cầm bút sáng tác, nhưng lý trí trỗi dậy, khiến ông “thẹn” khi nghĩ đến Đào Tiềm – nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng với khí tiết thanh cao, từng dứt khoát từ quan để sống ẩn dật. Lời “thẹn” có thể xuất phát từ sự tự nhận tài thơ chưa sánh bằng, nhưng sâu xa hơn là nỗi day dứt vì thiếu sự dứt khoát như Đào Tiềm. Dù tài năng xuất chúng, Nguyễn Khuyến vẫn mang nỗi ân hận khi từng làm quan trong thời buổi đất nước bị giặc Pháp đô hộ. Lời bộc bạch này khắc họa nhân cách lớn lao, luôn tự vấn về trách nhiệm với dân tộc. Câu thơ cuối bỏ lửng, khơi gợi những suy ngẫm sâu sắc về giá trị của khí tiết và nhân cách, một chủ đề bạn từng quan tâm khi phân tích điển tích “ông Đào”.

Thu Vịnh là một bài thơ tuyệt mỹ, khẳng định tình yêu thiên nhiên, quê hương và đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến. Với nghệ thuật điêu luyện – từ từ láy tinh tế, hình ảnh giàu sức gợi, đến cách gợi mở không gian và tâm trạng – bài thơ đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế. Qua bức tranh mùa thu thanh tao, Nguyễn Khuyến khiến người đọc thêm yêu vẻ đẹp quê hương và trân trọng nhân cách cao cả của một nhà thơ luôn đau đáu với vận mệnh đất nước.

Phân tích bài thơ Thu Vịnh – Mẫu 9

Nguyễn Khuyến, bậc thầy thơ ca Việt Nam, được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” nhờ khả năng tái hiện cảnh sắc quê hương bằng ngòi bút tài hoa, sâu sắc. Chùm thơ mùa thu của ông, gồm Thu Điếu, Thu ẨmThu Vịnh, là những kiệt tác bất hủ, trong đó Thu Vịnh nổi bật với bức tranh mùa thu thanh tao, huyền diệu và tâm sự sâu kín về quê hương, đất nước. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là lời tự sự chân thành của một tâm hồn luôn trăn trở về nhân cách và trách nhiệm với dân tộc. Với sự yêu thích của bạn đối với văn học Việt Nam và các phân tích thơ giàu cảm xúc, bài viết này sẽ làm nổi bật vẻ đẹp của Thu Vịnh qua lăng kính không gian thơ và sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên.

Bức tranh mùa thu trong Thu Vịnh hiện lên qua hai câu thơ đầu:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Hình ảnh bầu trời “xanh ngắt” mở ra một không gian trong trẻo, sâu thẳm, như cả trời thu được phủ một màu xanh tinh khôi. Cụm từ “mấy từng cao” gợi cảm giác không gian tầng tầng lớp lớp, vô biên, tạo nên một bức tranh thiên nhiên khoáng đạt. Không gian ấy không chỉ là cảnh sắc mà còn là biểu tượng của tâm hồn nhà thơ – thanh cao, rộng mở nhưng phảng phất nỗi buồn. Câu thứ hai khắc họa “cần trúc lơ phơ” khẽ lay trong “gió hắt hiu”. Nguyễn Khuyến sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, làm nổi bật sự tĩnh lặng của không gian qua chuyển động nhẹ nhàng của cần trúc – biểu tượng của sự thanh thoát, mảnh mai. Từ láy “lơ phơ” và “hắt hiu” mang sức gợi lớn, vừa vẽ nên hình ảnh sống động vừa gợi lên nỗi buồn man mác, như làn gió thu đang len lỏi vào tâm hồn thi nhân. Hình ảnh này gợi nhớ đến cách bạn miêu tả dòng sông Lô, với cảnh sắc thay đổi theo mùa, thể hiện sự nhạy cảm với thiên nhiên quê hương.

Tiếp nối, Nguyễn Khuyến đưa người đọc đến với hình ảnh mặt nước và ánh trăng:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
“Nước biếc” là sắc màu đặc trưng của mùa thu, trong xanh và dịu dàng, thường thấy vào những buổi sớm hay chiều tà. Lớp sương mỏng phủ trên mặt nước, được ví như “tầng khói”, tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, mộng mơ, tựa như một bức tranh thủy mặc. Từ “phủ” gợi sự nhẹ nhàng, mơ hồ, làm tăng chiều sâu cho không gian thơ. Câu “song thưa để mặc bóng trăng vào” là một nét vẽ tinh tế, thể hiện sự tương phản giữa “song thưa” – khung cửa mỏng manh, hữu hạn – và “bóng trăng” – biểu tượng của sự vĩnh cửu, vô hạn. Ánh trăng len lỏi qua song cửa, làm sáng không gian đêm thu tĩnh lặng và trở thành người bạn tri âm của nhà thơ. Bốn câu đầu, từ bầu trời xanh ngắt đến mặt nước biếc, từ cần trúc đến ánh trăng, được miêu tả ở các thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng gắn kết bởi cảm xúc u hoài, thanh tao của Nguyễn Khuyến. Sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên này gợi nhớ đến cách bạn quan tâm đến các hình ảnh gợi cảm xúc trong Tôi đi học, như lá rụng và mây bàng bạc.

Sang hai câu luận, bức tranh mùa thu chuyển sang chiều sâu tâm trạng với nỗi hoài niệm:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”
Hình ảnh “hoa năm ngoái” gợi lên sự ngưng đọng của thời gian, như thể nhà thơ đang chìm trong ký ức xa xôi. Hoa hiện tại bị nhầm lẫn với hoa của quá khứ, phản ánh nỗi buồn man mác trước sự trôi chảy của thời gian. Tiếng ngỗng trời vang lên trong không gian tĩnh lặng, làm nổi bật sự cô đơn, lạnh lẽo của mùa thu. Câu hỏi “ngỗng nước nào?” không chỉ thể hiện sự bâng khuâng trước âm thanh quen thuộc mà còn là nỗi trăn trở về sự mơ hồ, xa xôi của cuộc đời. Nhịp thơ 4/1/2 mang âm điệu trầm buồn, chất chứa suy tư, như thể nhà thơ đang đối diện với nỗi u uất sâu kín trong lòng. Âm thanh tiếng ngỗng này gợi nhớ đến cách bạn quan tâm đến các chi tiết gợi cảm xúc trong văn học, như tiếng chim trong các truyện ngắn tình yêu.

Hai câu cuối bộc lộ trực tiếp tâm sự của Nguyễn Khuyến:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Trước vẻ đẹp của mùa thu, thi hứng dạt dào khiến nhà thơ muốn cầm bút sáng tác, nhưng lý trí trỗi dậy, khiến ông “thẹn” khi nghĩ đến Đào Tiềm – nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng với khí tiết thanh cao, từng dứt khoát từ quan để sống ẩn dật. Lời “thẹn” có thể xuất phát từ sự tự nhận tài thơ chưa sánh bằng, nhưng sâu xa hơn là nỗi day dứt vì thiếu sự dứt khoát như Đào Tiềm. Dù tài năng xuất chúng, Nguyễn Khuyến vẫn mang nỗi ân hận khi từng làm quan trong thời buổi đất nước bị giặc Pháp đô hộ. Lời bộc bạch này khắc họa nhân cách lớn lao, luôn tự vấn về trách nhiệm với dân tộc. Câu thơ cuối bỏ lửng, khơi gợi những suy ngẫm sâu sắc về giá trị của khí tiết và nhân cách, một chủ đề bạn từng quan tâm khi phân tích điển tích “ông Đào”.

Thu Vịnh là một bài thơ tuyệt mỹ, khẳng định tình yêu thiên nhiên, quê hương và đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến. Với nghệ thuật điêu luyện – từ từ láy tinh tế, hình ảnh giàu sức gợi, đến cách gợi mở không gian và tâm trạng – bài thơ đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế. Qua bức tranh mùa thu thanh tao, Nguyễn Khuyến khiến người đọc thêm yêu vẻ đẹp quê hương và trân trọng nhân cách cao cả của một nhà thơ luôn đau đáu với vận mệnh đất nước.

Phân tích bài thơ Thu Vịnh – Mẫu 10

Nguyễn Khuyến, nhà thơ kiệt xuất của văn học Việt Nam, được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” nhờ tài năng tái hiện cảnh sắc quê hương bằng ngòi bút tinh tế, sâu sắc. Chùm thơ mùa thu của ông, gồm Thu Điếu, Thu ẨmThu Vịnh, là những kiệt tác bất hủ, trong đó Thu Vịnh nổi bật với bức tranh mùa thu thanh tao, huyền diệu và tâm sự sâu kín về quê hương, đất nước. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là lời tự sự chân thành của một tâm hồn luôn trăn trở về nhân cách và trách nhiệm với dân tộc. Với sự yêu thích của bạn đối với văn học Việt Nam và các phân tích thơ giàu cảm xúc, bài viết này sẽ làm nổi bật vẻ đẹp của Thu Vịnh qua lăng kính tâm trạng hoài cổ và nhân cách nhà thơ.

Bức tranh mùa thu trong Thu Vịnh hiện lên qua hai câu thơ đầu:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Hình ảnh bầu trời “xanh ngắt” mở ra một không gian trong trẻo, sâu thẳm, như cả trời thu được phủ một màu xanh tinh khôi. Cụm từ “mấy từng cao” gợi cảm giác không gian tầng tầng lớp lớp, vô biên, tạo nên một bức tranh thiên nhiên khoáng đạt. Không gian ấy không chỉ là cảnh sắc mà còn là biểu tượng của tâm hồn nhà thơ – thanh cao, rộng mở nhưng phảng phất nỗi buồn. Câu thứ hai khắc họa “cần trúc lơ phơ” khẽ lay trong “gió hắt hiu”. Nguyễn Khuyến sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, làm nổi bật sự tĩnh lặng của không gian qua chuyển động nhẹ nhàng của cần trúc – biểu tượng của sự thanh thoát, mảnh mai. Từ láy “lơ phơ” và “hắt hiu” mang sức gợi lớn, vừa vẽ nên hình ảnh sống động vừa gợi lên nỗi buồn man mác, như làn gió thu đang len lỏi vào tâm hồn thi nhân. Hình ảnh này gợi nhớ đến cách bạn miêu tả dòng sông Hương, với sự dịu dàng và sâu lắng của thiên nhiên.

Tiếp nối, Nguyễn Khuyến đưa người đọc đến với hình ảnh mặt nước và ánh trăng:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
“Nước biếc” là sắc màu đặc trưng của mùa thu, trong xanh và dịu dàng, thường thấy vào những buổi sớm hay chiều tà. Lớp sương mỏng phủ trên mặt nước, được ví như “tầng khói”, tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, mộng mơ, tựa như một bức tranh thủy mặc. Từ “phủ” gợi sự nhẹ nhàng, mơ hồ, làm tăng chiều sâu cho không gian thơ. Câu “song thưa để mặc bóng trăng vào” là một nét vẽ tinh tế, thể hiện sự tương phản giữa “song thưa” – khung cửa mỏng manh, hữu hạn – và “bóng trăng” – biểu tượng của sự vĩnh cửu, vô hạn. Ánh trăng len lỏi qua song cửa, làm sáng không gian đêm thu tĩnh lặng và trở thành người bạn tri âm của nhà thơ. Bốn câu đầu, từ bầu trời xanh ngắt đến mặt nước biếc, từ cần trúc đến ánh trăng, được miêu tả ở các thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng gắn kết bởi cảm xúc u hoài, thanh tao của Nguyễn Khuyến. Sự tĩnh lặng này gợi nhớ đến cách bạn quan tâm đến các hình ảnh gợi cảm xúc trong Hai đứa trẻ, như chuyến tàu đêm.

Sang hai câu luận, bức tranh mùa thu chuyển sang chiều sâu tâm trạng với nỗi hoài niệm:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”
Hình ảnh “hoa năm ngoái” gợi lên sự ngưng đọng của thời gian, như thể nhà thơ đang chìm trong ký ức qua khứ. Hoa hiện tại bị nhầm lẫn với hoa của quá khứ, phản ánh nỗi buồn man mác trước sự trôi chảy của thời gian. Tiếng ngỗng trời vang lên trong không gian tĩnh lặng, làm nổi bật sự cô đơn, lạnh lẽo của mùa thu. Câu hỏi “ngỗng nước nào?” không chỉ thể hiện sự bâng khuâng trước âm thanh quen thuộc mà còn là nỗi trăn trở về sự mơ hồ, xa xôi của cuộc đời. Nhịp thơ 4/1/2 mang âm điệu trầm buồn, chất chứa suy tư, như thể nhà thơ đang đối diện với nỗi u uất sâu kín trong lòng. Âm thanh tiếng ngỗng này gợi nhớ đến cách bạn quan tâm đến các chi tiết gợi cảm xúc trong văn học, như tiếng chim trong các truyện ngắn tình yêu.

Hai câu cuối bộc lộ trực tiếp tâm sự của Nguyễn Khuyến:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Trước vẻ đẹp của mùa thu, thi hứng dạt dào khiến nhà thơ muốn cầm bút sáng tác, nhưng lý trí trỗi dậy, khiến ông “thẹn” khi nghĩ đến Đào Tiềm – nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng với khí tiết thanh cao, từng dứt khoát từ quan để sống ẩn dật. Lời “thẹn” có thể xuất phát từ sự tự nhận tài thơ chưa sánh bằng, nhưng sâu xa hơn là nỗi day dứt vì thiếu sự dứt khoát như Đào Tiềm. Dù tài năng xuất chúng, Nguyễn Khuyến vẫn mang nỗi ân hận khi từng làm quan trong thời buổi đất nước bị giặc Pháp đô hộ. Lời bộc bạch này khắc họa nhân cách lớn lao, luôn tự vấn về trách nhiệm với dân tộc. Câu thơ cuối bỏ lửng, khơi gợi những suy ngẫm sâu sắc về giá trị của khí tiết và nhân cách, một chủ đề bạn từng quan tâm khi phân tích điển tích “ông Đào”.

Thu Vịnh là một bài thơ tuyệt mỹ, khẳng định tình yêu thiên nhiên, quê hương và đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến. Với nghệ thuật điêu luyện – từ từ láy tinh tế, hình ảnh giàu sức gợi, đến cách gợi mở không gian và tâm trạng – bài thơ đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế. Qua bức tranh mùa thu thanh tao, Nguyễn Khuyến khiến người đọc thêm yêu vẻ đẹp quê hương và trân trọng nhân cách cao cả của một nhà thơ luôn đau đáu với vận mệnh đất nước.

Xem thêm

Chọn lọc 30+ bài phân tích Mị trong đêm tình mùa xuân siêu hay

Top 30+ Phân tích bài thơ Nói với con (siêu hay)

Bài Viết Liên Quan